Anton Bruckner là một trường hợp đặc biệt của lịch sử âm nhạc, một nạn nhân vô tội trong “chiến tranh Brahms-Wagner”. Xuất thân là một thày giáo nghèo ở một làng quê hẻo lánh, Bruckner đã là một nghệ sỹ organ khốn khổ trong nhiều năm ở Linz và Vienna, ông chỉ được công nhận là một nhà giao hưởng tài năng trong những năm cuối cùng của cuộc đời. Con người nhỏ bé của Bruckner vốn vô cùng nhút nhát, lạc hậu, quê mùa, hiền lành và ngây thơ như một đứa trẻ nhưng lại mang một sức mạnh tinh thần lạ thường của niềm tin tôn giáo, một thứ niềm tin chân thành đến mức khó hiểu. Và càng khó hiểu hơn nữa là tính chất đồ sộ, lớn lao, cao cả, vĩ đại trong âm nhạc của ông. Bruckner đã bị vùi dập ở Vienna bởi chính con người ngờ ngệch, nhu nhược của ông chứ không phải bản chất âm nhạc của ông. Sự tự ti, sợ hãi đã khiến ông núp vào cái bóng lớn của Wagner và khoác lên mình cái vỏ của một “người theo Wagner”. Trên thực tế, 9 bản giao hưởng của Bruckner hầu như không chứa đựng yếu tố Wagnerian; về hình thức, chúng gần với âm nhạc của Beethoven và Brahms hơn là âm nhạc chương trình của phái Wagner, và cũng giống như giao hưởng Schubert, chúng chứa đầy những chất liệu lấy từ các điệu nhảy thôn quê. Giao hưởng Bruckner đồ sộ, nhưng đẹp một cách huy hoàng, sử thi và lộng lẫy. Chúng ta có thể thấy trong các tác phẩm này sự kế thừa xuất sắc truyền thống lãng mạn Đức-Áo, với những giai điệu đẹp tuyệt vời, nồng ấm, chân thành và say đắm. Điều làm Bruckner trở nên khác biệt có lẽ là tính chất bộc phát huy hoàng khác thường của tư tưởng xuất hiện ở trạng thái cực điểm của lòng thành kính ngây thơ và vô cùng chân thành đối với Chúa. Sự khác thường đó dường như đã chỉ xuất hiện cùng với sự tương phản tuyệt đối giữa tính cách của Bruckner và âm nhạc của ông. Ngày nay, thế giới coi Bruckner, cùng với học trò của ông, Gustav Mahler là hai trong số những nhà giao hưởng vĩ đại nhất trong lịch sử.
Giống Franz Schubert, Anton Bruckner cũng xuất thân là một thày giáo ở nông thôn. Quê hương Bruckner là ngôi làng Ansfelden, không xa thành Linz. Cả bố và ông của Bruckner đều đã dành cả đời để làm thày giáo ở ngôi làng này. Và người ta đã kỳ vọng sự chào đời của cậu bé Anton vào ngày 4/9/1824 không gì khác hơn là sự xuất hiện của một thày giáo làng nghèo khó mới.
Anton đã sớm bộc lộ khả năng âm nhạc từ năm 4 tuổi, người ta vẫn thường thấy cậu gõ nhịp, huýt sáo và chơi những giai điệu mới mẻ từ cây vĩ cầm nhỏ. Thực hiện nhiệm vụ truyền thống của một thày giáo làng, bố của Anton thường phải chơi organ ở nhà thờ thành ra cậu bé đã có thể chơi loại nhạc cụ một cách thành thục từ năm 10 tuổi. Một nhạc công giỏi ở ngôi làng kế bên đã nhận ra tài năng của Anton và nhận dạy cậu bé lý thuyết âm nhạc cũng như đàn organ trong hai năm.
Năm 1837, bố của Anton qua đời. Là con trai cả trong gia đình 11 người con, Anton được mẹ gửi đến trường thánh nhạc St. Florian. Bốn năm ở ngôi trường này đã là cơ hội rất tốt để Anton học thêm các nhạc cụ piano, violin và lý thuyết âm nhạc.
Tuy khuynh hướng âm nhạc của Bruckner bộc lộ ngày càng rõ rệt nhưng trong ý nghĩ mang nặng tính truyền thống, ngây thơ và quê mùa của chàng trai trẻ khi ấy vẫn không có gì khác ngoài việc kiếm sống bằng nghề dạy học. Bruckner đã khởi nghiệp ở một ngôi làng miền núi gần như bị thế giới lãng quên có tên là Windhaag với vị trí của một phụ tá dạy học và người chơi organ. Bruckner đã không hề cảm thấy chán nản đối với cuộc sống nghèo khó và lạc hậu ở miền quê, ngược lại, anh tìm thấy sự vui thú từ việc kéo đàn, nhảy múa và hát những giai điệu quê mùa cùng mọi người. Ít ai có thể ngờ được rằng, những điệu nhảy quê mùa ấy đã trở nên bất tử trong các chương scherzo kiệt xuất của Bruckner sau này.
Một sự thực trớ trêu là, tài năng âm nhạc bẩm sinh của Bruckner lại được khơi dậy bởi những người dân làng lạc hậu, dốt nát. Một người già làng Ansfelder đã từng thốt lên: “Quỷ tha ma bắt! Cậu Brucker đúng là một nhạc sỹ tài giỏi” Và giống như một tia sáng lóe lên trong sự u tối, người thầy giáo già này đã quả quyết: “Không! Tôi nhất định không cho đứa con nào của mình làm thầy giáo cả. Không! Làm một cục đá còn tốt hơn nhiều!”
Bruckner bị đãng trí tới mức độ cù lần, và vì vậy anh đã bị đẩy đến một ngôi làng còn nhỏ bé hơn, có tên là Kronsdorf. Tuy nhiên, đó lại là một may mắn cho sự nghiệp âm nhạc của anh, ngôi làng đó ở ngay cạnh Steyr, nơi ở của nghệ sỹ organ nổi tiếng Zanetti. Và Bruckner lại tiếp tục được theo học lý thuyết âm nhạc với một người thầy giỏi. Năm 1845, một may mắn nữa đã đến với Bruckner khi anh được quay lại St. Florian trong cương vị của một thầy giáo. Tại St. Florian năm 1849, Bruckner viết Requiem giọng Rê thứ, tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự trưởng thành trong sáng tác của anh. Đến năm 1851, Bruckner trở thành nghệ sỹ organ chính thức của ngôi trường này. Xác định mục tiêu trở thành một bậc thầy về đàn phím, mỗi ngày Bruckner đã dành 10 tiếng luyện tập piano và 3 tiếng cho organ.
Năm 1853, Bruckner thực hiện chuyến hành trình đầu tiên đến Vienna với hy vọng xóa bỏ bóng ma của sự ngờ vực vẫn ám ảnh trong đầu óc. Chính những ngờ vực về âm nhạc do sống trong môi trường lạc hậu đã từng suýt nữa đẩy anh đến quyết định từ bỏ âm nhạc. Và lại một sự may mắn tình cờ đã đưa Bruckner đến với Simon Sechter, nhà lý thuyết âm nhạc nổi tiếng của thành Vienna (Schubert trước đây trong những năm cuối đời cũng từng có quyết định theo học Sechter). Những kiến thức mới mẻ ở từ Sechter đã dần đem lại nhận thức cho Bruckner chiến thắng sự dày vò của những ngờ vực vốn gây ra bởi sự cuồng tín một cách khờ dại và vô thức đối với kiểu tôn giáo làng quê lạc hậu.
Năm 1856, Bruckner giành chiến thắng trong cuộc thi chọn ra nghệ sỹ organ cho Nhà thờ lớn ở Linz. Sau khi “tốt nghiệp” khóa học hòa âm và đối âm với Setcher, Bruckner còn phải vượt qua một cuộc thi nữa – kiểm tra “sự trưởng thành” trong âm nhạc, một kiểu thi tương đối phổ biến ở Vienna thời đó, với một hội đồng chấm thi gồm năm nhân vật sừng sỏ về âm luật. Một chủ đề ngắn được viết trên một tờ giấy nhỏ bởi một thành viên hội đồng và được chuyển cho Bruckner. Sau màn ứng tấu của người nghệ sỹ organ, một thành viên hội đồng đã reo lên đầy phấn khích: “Đáng lẽ ra người này phải chấm thi chúng ta mới đúng! Nếu tôi chỉ giỏi bằng một phần mười anh ta thì tôi cũng đã vui lắm rồi.” Và sau khi nghe tiếp một đoạn ứng tấu tự do của Bruckner, vị giám khảo này đã òa lên: “Tại sao chúng ta lại được yêu cầu kiểm tra người này cơ chứ? Tại sao? Anh ta giỏi hơn tất cả chúng ta cộng lại!” Vị giám khảo đó tên là Herbeck, và kể từ đó ông trở thành người bạn tốt nhất của Bruckner. Đáng tiếc là ông lại qua đời quá sớm để có thể giúp Bruckner vượt qua những khó khăn.
Năm 1860, hội hợp xướng “Frohsinn” chọn Bruckner làm chủ tịch. Ngày 12/5/1861, Bruckner lần đầu tiên cho công diễn một tác phẩm của mình – bản “Ave Maria” cho bảy giọng. Sự sùng bái đối với Richard Wagner của Bruckner đã được thể hiện qua một số tác phẩm đầu tay của Bruckner: Overture giọng Sol thứ (1863) và Mass giọng Rê trưởng (1864). Năm 1865, Bruckner bắt đầu viết bản giao hưởng đầu tiên của ông, năm đó cũng là năm công diễn lần đầu tiên vở Tristan – sự kiện âm nhạc lớn nhất thế kỷ. Bruckner đã thực hiện một chuyến đi đến thủ đô xứ Bavaria, một “thánh đường” của “đế chế Wagner”. Ông đã gặp Hans Von Buelow và ngượng ngịu đưa cho nghệ sỹ piano nổi tiếng này xem ba chương đầu của bản giao hưởng đang viết dở. Ngạc nhiên trước sự lộng lẫy huy hoàng của tác phẩm, Buelow đã không kìm được việc kể nó với Wagner. Vị “giáo chủ” âm nhạc xứ Bavaria đã muốn gặp Bruckner để xem tận mắt tác phẩm. Nhưng Bruckner đã không đủ can đảm để đưa nó cho một người mà, phương diện tinh thần ông luôn coi là “thủ lĩnh tối cao”, “bậc thầy của các bậc thầy.” Không có gì ngạc nhiên là, sau buổi công diễn Tristan, Bruckner đã coi Wagner là một “vị thánh sống” của mình.
Ngày 14/4/1866, bản giao hưởng thứ nhất được hoàn thành. Tác phẩm được công diễn năm 1866, không hoàn toàn thất bại. Bruckner đã thực hiện rất nhiều buổi tập với bản giao hưởng trước sự có mặt của giới phê bình với hy vọng họ có thể đánh giá một cách đầy đủ về tác phẩm.
Năm 1868, sau khi Setcher qua đời, Bruckner thừa kế vị trí giáo sư về lý thuyết âm nhạc ở Nhạc viện Vienna. Sau khi cầu hôn cô gái 17 tuổi Josephine Lang và bị từ chối, Bruckner rơi vào giai đoạn khủng hoảng tinh thần. Ông quyết định ngừng sáng tác trong một thời gian và thực hiện một chuyến lưu diễn đến Pháp. Báo chí thời ấy đã ca ngợi Bruckner là “nghệ sỹ organ lớn nhất của thời đại.”
Năm 1872, Bruckner đã chi một khoản tiền bằng 8 tháng lương của ông để thuê dàn nhạc nổi tiếng thế giới Vienna Philharmonic trình diễn tác phẩm Mass giọng Fa thứ. Sau đó ông lại tiếp tục đi vay tiền để có thể cho dân thành Vienna nghe Giao hưởng số 2 của mình. Herbeck đã từng nói với Bruckner: “Tôi chắc chắn với ông là, nếu một bản giao hưởng như thế này mang tên tác giả là Brahms thì cả nhà hát sẽ ngập trong tiếng pháo tay.” Bấy giờ Brahms tuy chưa hoàn hành Giao hưởng số 1 của ông nhưng đã được coi như một trong những nhân vật hàng đầu thế giới về âm nhạc giao hưởng.
Giao hưởng số 3 của Bruckner được đề tặng Wagner. Lần này ông đã có đủ can đảm để dâng một bản giao hưởng lên thần tượng của mình. Có một giai thoại kể rằng, khi Bruckner gặp Wagner, ông đã quỳ xuống, đặt tay lên môi và nói: “Ôi! Thầy! Tôi tôn kính ngài”. Phản hồi của Wagner đã đem đến cho Bruckner những khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời bi kịch của ông: “Bạn thân mến, món quà của bạn thực sự có ý nghĩa, đối với tôi, nó là niềm vui lớn nhất.”
Giao hưởng số 4 “Lãng mạn”, được hoàn thành ngày 22/11/1874. Cái tên “Lãng mạn” không thực sự gắn liền với tác phẩm theo kiểu âm nhạc chương trình, nó chỉ có chủ đích gắn kết một cách hình thức với trường phái Wagner, nhất là sau khi Wagner công bố một sự diễn giải mang tính hình ảnh về Giao hưởng số 9 của Beethoven. Trên thực tế Bruckner không coi trọng “tính chất chương trình” trong bản giao hưởng của ông. Ông viết:”Trong chương cuối, tôi đã quên hoàn toàn bức tranh tôi có trong đầu.” Giao hưởng “Lãng mạn” được đánh giá là đã đạt đến một sự thống nhất một cách chưa có tiền lệ của âm nhạc chương trình.
Bruckner bị cô lập ở Vienna, vì ông đã “làm bạn” và là “kẻ sùng bái” Wagner. Trong cuộc chiến tranh Brahms-Wagner, giai đoạn khốc liệt nhất của “Chiến tranh thời Lãng mạn”, Vienna chính thánh địa của những người ủng hộ Brahms – mà đứng đầu là nhà phê bình Eduard Hanslick. Giới phê bình thành Vienna với quyền lực của Hanslick đã vùi dập gần như mọi thứ mà Bruckner có. Danh tiếng thì nhỏ nhoi, tiền bạc lại càng thiếu thốn. Trong một bức thư gửi cho bạn năm 1875, Bruckner viết: “Tôi chỉ có duy nhất một chỗ trong nhạc viện, ngoài dạy học, tôi không có khoản thu nhập nào khác. Tôi phải đi vay tiền hết lần này đến lần khác nếu không muốn chết đói. Không ai giúp tôi, Bộ trưởng Giáo dục có hứa, nhưng chả làm gì cả. Nếu không có vài người nước ngoài đến học tôi thì chắc là tôi phải chuyển sang đi ăn mày mất.”
Bruckner đã ngây thơ nghĩ rằng, Brahms đứng đằng sau những đòn tấn công mà Hanslick đổ xuống đầu ông. Trên thực tế, Brahms quan tâm trực tiếp đến âm nhạc nhiều hơn là những thủ đoạn công kích mang phong cách đấu tranh chính trị. Có thể hình dung rằng, Brahms đã chỉ là một biểu tưởng tinh thần mà nhóm của Hanslick sử dụng để chống Wagner.
Một quan chức cao cấp của Nhạc viện khi gặp Bruckner còn nói với ông: “Tốt nhất là ném mấy bản giao hưởng của ông vào sọt rác đi. Sẽ là khôn ngoan hơn nếu ông kiếm tiền bằng việc chuyển soạn cho piano các tác phẩm của những người khác. Quá đáng hơn, trong một lần khác, vị quan chức này đã làm luôn một câu: “Bruckner không hề biết chơi organ.”
Bruckner chìm sâu vào thảm kịch với Giao hưởng số 5, về sau được gắn với cái tên là Giao hưởng “Bi kịch”. Chỉ có sống trong bản giao hưởng, Bruckner mới có khả đóng vai một người anh hùng chống lại định mệnh. Mười tám năm sau khi hoàn thành tác phẩm mới được trình diễn lần đầu, không phải ở Vienna, và Bruckner cũng chưa bao giờ được nghe nó.
Ngày 16/12/1877, một trong những ngày buồn nhất của lịch sử âm nhạc, Giao hưởng Wagner (Giao hưởng số 3) được lên chương trình công diễn ở Vienna. Vì không nhạc trưởng nào dám cầm đũa nên chính Bruckner phải trực tiếp chỉ huy. Ngay trong những phút đầu, Hellmsberger, người phát ngôn của nhạc viện phá lên cười, một người khác cười theo, mấy sinh viên cũng bắt chước, rồi đến lượt cả đám đông khúc khích. Một số người đứng dậy và dời khỏi khán phòng. Khi tác phẩm kết thúc, phòng hòa nhạc chỉ còn lại mười khán giả, đó là những học trò thân của Bruckner. Một trong số họ, Gustav Mahler chạy đến bên Bruckner cố gắng an ủi người thầy đang tuyệt vọng. Đúng lúc đó, một thiên thần của Bruckner bỗng xuất hiện, nhà xuất bản âm nhạc Rattig đã dùng từ “tuyệt vời” khi nhận xét bản giao hưởng và tuyên bố sẽ xuất bản nó bất chấp rủi ro thua lỗ.
Bruckner đã dành 2 năm (1878-1880) để sửa lại các giao hưởng số 2i, số 4 và số 5, đồng thời thêm vào một chương hoàn toàn mới cho Giao hưởng “Lãng mạn”, chương Scherzo “Đi Săn”. Cũng trong giai đoạn này, ông viết thêm Ngũ tấu đàn dây.
Sau ngày đen tối với Giao hưởng Wagner, Bruckner vẫn còn đủ tinh thần để tiếp tục viết Giao hưởng số 6. Như thế với Bruckner, tất cả những vận đen đều chỉ là do Đấng Bề Trên muốn thử thách niềm tin của ông. Những ngày đó, Hans Richter, học trò của Wagner đã đến thăm ông và đã bị quyến rũ khi đọc được tổng phổ Giao hưởng “Lãng mạn”. Richters quyết định lên chương trình công diễn tác phẩm và mời Bruckner đến xem buổi tập. Richter đã kể lại sự ngây thơ chất phác của Bruckner: “Khi bản giao hưởng kết thúc, ông ấy đến chỗ tôi, mặt mày hớn hở, ấn một đồng xu vào bàn tay tôi và nói: ‘Cầm lấy và uống một cốc bia cho khỏe!’”. Richter đã nhận lấy đồng xu như một kỷ niệm, ông gắn nó vào dây đeo đồng hồ của mình. Lần công diễn đầu tiên Giao hưởng số 4 vào ngày 20/2/1881 đã là một chiến thắng thực sự đối với Bruckner.
Buổi công diễn Giao hưởng số 7 (1886) ở Munich dưới sự chỉ huy của Hermann Levi thậm chí còn là chiến thắng lớn hơn. Vị nhạc trưởng đã gọi bản giao hưởng là một “tác phẩm tuyệt vời”. Có lẽ Levi – một Wagnerian khét tiếng còn muốn tiện thể loại bỏ Brahms nên đã nói thêm: “Nó là tác phẩm giao hưởng có giá trị nhất kể từ 1827”.
Sau lần công diễn đó, Giao hưởng số 7 bắt đầu chuyến chinh phục, gặt hái thành công của ở nhiều nơi trên thế giới: Cologne, Graz, Chicago, New York, Amsterdam, Budapest, Dresden, và London.
Bruckner lấy những lời của Goethe làm phương ngôn sống: “Mọi lý thuyết đều màu xám và cây đời mãi mãi xanh tươi.” Bruckner trong những năm ở trường đại học cũng có được niềm yêu mến và ủng hộ của những học trò. Những học trò này dần hiểu được rằng, sự thù địch của Hanslick đối với thầy của mình chỉ là vấn đề đời sống và vấn đề chính trị. Sự nhẫn nhục bền bỉ của Bruckner rồi cũng làm giới phê bình thù địch cảm thấy mệt mỏi. Sau một quá trình dài mười năm, Vienna Philharmonic cuối cùng cũng phải lên chương trình công diễn Giao hưởng số 7, một tác phẩm vốn đã nổi tiếng thế giới.
Những người bạn của Bruckner và Brahms, với hy vọng chấm dứt những tranh chấp giữa hai người nên đã sắp xếp một buổi gặp gỡ tại một khách sạn ở Vienna. Bruckner, khá dĩ hòa vi quý nên đã đến sớm hơn và ăn trước 2 bát súp. Brahms đến sau. Hai bên đối mặt nhau cách một chiếc bàn, lạnh lùng không nhân nhượng. Cuối cùng, có lẽ vì chưa ăn gì nên Brahms đành phải là người phá vỡ sự yên lặng: “Nào, xem có gì để ăn không nào!” Ông gọi bồi bàn: “mang cho tôi thịt hun khói và bánh hấp!”. Ngay lập tức, Bruckner cũng gọi luôn: “Đúng rồi! Tiến sỹ! Thịt hun khói và bánh hấp. Ít nhất chúng ta cũng có cùng quan điểm về khoản ăn uống!” (Người thành Vienna thời đó vẫn gọi Brahms là Doctor – Tiến sỹ).
Thực ra, chính Brahms trước khi tham gia vào chiến dịch chống Wagnerian của Hanslick cũng đã từng tuyến bố: “Bruckner là nhà giao hưởng lớn nhất của thời đại.” Một lần, sau khi nghe xong một giao hưởng của Bruckner, Brahms tiến đến ông và nói: “Tôi hy vọng ông không thấy buồn, nhưng tôi không thể hình dung được là ông đang định đạt tới điều gì với sáng tác của mình.” Bruckner trả lời: “Đừng bận tâm, Tiến sỹ, điều đó hoàn toàn ổn. Tôi cũng có cảm nhận y như vậy đối với các sáng tác của ông.”
Ngày 21/12/1890, hai phiên bản của Giao hưởng Wagner được trình diễn tại Vienna. Hanslick đã thừa nhận rằng, ở đâu đó, có 4 hoặc 8 ô nhịp mang vẻ đẹp sáng tạo, nhưng lại kết luận rằng toàn bản giao hưởng là “một mớ hỗn độn”. Người thời nay vẫn băn khoăn không hiểu sao Hanslick đã chỉ thấy được những thứ rối rắm từ một hình thức “siêu – trật tự” mà ngày nay thế giới gọi nó là hình thức giao hưởng Bruckner – đồ sộ, bao la và hướng tâm nhưng một đế chế lớn.
Thành Vienna dần dần bị thuyết phục bởi tài năng của Bruckner. Một nhóm người Áo giàu có đã quyết định tài trợ về tài chính để giải phóng nhà soạn nhạc khỏi công việc giảng dạy nặng nhọc. Mùa thu năm 1891, Bruckner được phong tặng “Tiến sỹ Danh dự” Đại học Vienna. Trước đó không lâu, ông nhận được một huy hiệu từ hoàng đế Franz Joseph và đã thường xuyên trưng diện nó một cách rất tự hào, giống như một đứa trẻ với một thứ đồ chơi mới. Chuyện kể rằng, khi hoàng đế nước Áo hỏi Bruckner xem có thể làm gì giúp được cho ông, Bruckner đã vụng về nói: “Bệ hạ! Tôi chỉ băn khoăn là liệu ngài có thể bảo ông Hanslick đừng viết những điều kinh tởm về tôi nữa có được hay không.”
Ngày 18/12/1892, Bruckner có màn trình diễn ấn tượng nhất trong sự nghiệp của ông khi Vienna Philharmonic chơi Giao hưởng số 8. Tuy Hanslick, vẫn với thái độ như thường lệ, đã bỏ về trước chương cuối, nhưng các nhà phê bình khác đã gọi bản giao hưởng là “đỉnh cao của thế kỷ 19”, “tuyệt tác của phong cách Bruckner.” Hugo Wolf viết: “tác phẩm đã vô hiệu hóa mọi sự phê bình, chương Adagio tuyệt đối là một chương nhạc vô song.”
Sức khỏe của Bruckner ngày càng xấu đến mức, ông đã không thể đến nhà hát để nghe những tác phẩm của chính mình và chứng kiến những thành công của chúng. Tuy nhiên, chính trong giai đoạn bệnh tật ốm yếu như vậy, Bruckner đã viết nên chương Scherzo của Giao hưởng số 9, một chương nhạc có lẽ là đầy sức sống nhất của ông. Bruckner đã vô cùng lo sợ rằng ông không đủ thời gian để hoàn thành nốt bản giao hưởng cuối đời. Bác sỹ của Bruckner khi bước vào phòng ông đã có lần chứng kiến một Bruckner khổ sở đang quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Chúa! Hãy cho con một chút sức lực! Người thấy đấy, con cần sức lực để hoàn thành nốt bản giao hưởng này!”
Bruckner đã phải bỏ dở Giao hưởng số 9 sau khi viết xong chương ba Adagio – một chương nhạc mà ông đã từng nói với những người bạn là “thứ đẹp đẽ nhất mà ông từng viết nên”.
Ngày 12/1/1896, ông được nghe tác phẩm Te Deum của mình, chính Brahms chứ không phải ai khác đã đề nghị trình diễn tác phẩm này. Cuối cùng Brahms đã chìa ra bàn tay thân thiện đối Bruckner – người mà phe của Hanslick vẫn coi là “kẻ đi theo Wagner.”
Ngày 11/10/1896, một ngày chủ nhật, Bruckner đã cố gắng ở bên những phác thảo chương cuối Giao hưởng số 9 của mình trong suốt buổi sáng. Ông trút hơi thở cuối cùng vào khoảng 3 giờ chiều.
Trong đám tang, người ta đã trình diễn chương Adagio của Giao hưởng số 7. Brahms già cả và ốm yếu đã chỉ có thể đứng ở cổng. Người ta nghe thấy Brahms thở dài: “sẽ sớm đến lượt tôi thôi,” rồi ông mệt mỏi lê bước về nhà. Brahms mất một năm sau đó.
Giao hưởng số 9 của Bruckner được lấy tiêu đề là “dâng lên Chúa kính yêu”. Bruckner đã mang một niềm tin tôn giáo sâu sắc và vô cùng chân thành trong suốt cuộc đời mình. Đối với Bruckner, những giao hưởng mà ông viết nên chính là những bài hát ca ngợi Chúa.
Những giao hưởng của Bruckner đã chịu rất nhiều những thêm bớt, cắt xén, sửa chữa. Ông đã từng rất lo âu về các tác phẩm của mình nên đã để cho các nhạc trưởng tùy ý chỉnh sửa theo ý họ. Mãi đến năm 1929, khi Hội Bruckner Quốc tế được thành lập, các phiên bản thống nhất của những giao hưởng mới được xuất bản. Robert Haas và Alfred Orel là những người biên tập đầu tiên thống nhất các phiên bản này, sau đó Leopold Nowak tiếp nối công việc của họ. Ngày nay, các nhạc trưởng có thể chọn một trong hai phiên bản, hoặc là của Haas, hoặc là của Nowak.
(Nguồn: nhaccodien.info)
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào thì đừng ngần ngại, hãy liên hệ với mình:
Facebook
Youtube
Tiktok
Instagram